Dự báo tổng nhu cầu thị trường cơ khí của Việt Nam từ nay đến năm 2030 có thể đạt hơn 300 tỷ USD, nhưng thực tế, chỉ mới đáp ứng gần 1/3 nhu cầu sản phẩm cơ khí trong nước
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), với khoảng 25.000 doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động, chiếm gần 30% tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam, tập trung ở ba phân ngành gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy; cơ khí gia dụng và dụng cụ; ôtô và phụ tùng ôtô.
Thống kê cho thấy linh kiện kim loại sản xuất trong nước hiện đáp ứng được 85-90% nhu cầu cho sản xuất xe máy; khoảng 15-40% nhu cầu linh kiện cho sản xuất ô tô (tùy chủng loại xe), 40-60% cho sản xuất các loại máy nông nghiệp và 40% cho máy xây dựng. Cung ứng linh kiện kim loại cho các ngành công nghiệp công nghệ cao hiện mới đáp ứng khoảng 10% nhu cầu.
Sản phẩm ngành cơ khí cung cấp là các loại chi tiết, linh kiện, cụm linh kiện kim loại cho các ngành hạ nguồn. Trong đó, có trên 500 doanh nghiệp sản xuất các loại linh kiện kim loại cung ứng cho các ngành hạ nguồn, tức những ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số doanh nghiệp cơ khí của cả nước.
“Bất kỳ một quốc gia nào, đặc biệt là quốc gia đông dân số như Việt Nam thì nhu cầu với ngành cơ khí chế tạo là rất lớn (Ảnh minh họa)
Theo đánh giá của TS.Trương Chí Bình – Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, ngành công nghiệp cơ khi Việt Nam hiện mới đáp ứng được nhu cầu trong nước ở mức thấp. Nếu so với các quốc gia láng giềng, ngành cơ khí của chúng ta không mạnh.
“Bất kỳ một quốc gia nào, đặc biệt là quốc gia đông dân số như Việt Nam thì nhu cầu với ngành cơ khí chế tạo là rất lớn. Chúng ta buộc phải làm trong nội địa bởi ngành cơ khí bản thân là những sản phẩm cồng kềnh và nặng, việc nhập khẩu là rất khó khăn”, bà Bình cho biết.
Về nguyên nhân theo ông Đào Phan Long – Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, trước đây, cơ khí chế tạo phần lớn là quốc doanh, vốn nhà nước nên khi quyết định chuyển sang vận hành cơ chế thị trường, “thả nổi” nên hiện nay ngành đang tụt hậu.
Loay hoay bài toán nguyên phụ liệu
Theo Bô Công Thương, dự kiến tổng nhu cầu quy mô thị trường ngành cơ khí giai đoạn 2019 – 2030 ở mức khoảng 310 tỷ USD. Đó là thị trường “mơ ước” đủ lớn, để phát triển ngành cơ khí chế tạo.
Tuy nhiên theo tính toán của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản, khả năng cung ứng vật liệu linh kiện của Việt Nam so với các nước trong khu vực chỉ chiếm 39,6%. Trong khi đó, khả năng cung ứng của Trung Quốc chiếm 59,5%; Malaysia chiếm 49,3%; Indonesia chiếm 44,8% và Thái Lan chiếm 41,7%.
Như với bộ van 1 chiều cho máy ép nhựa dùng để sản xuất linh kiện ô tô – xe máy, để làm ra đầu van này, 100% các nguyên liệu thép đều phải nhập khẩu.
“Thép kỹ thuật yêu cầu chế độ làm việc rất khắc nghiệt khi hoạt động trong môi trương nhiệt độ cao, phải chịu được khả năng ăn mòn hóa học. Những nhà sản xuất thép Việt Nam chủ yếu trong ngành xây dựng, còn trong ngành kỹ thuật chúng tôi không tìm được”, ông Nguyễn Phương Tuấn – Trưởng phòng Kinh doanh Công ty Kỹ thuật ASG Việt Nam cho biết
Với ngành nhựa cũng phải nhập hơn 80% nguyên liệu đầu vào, theo doanh nghiệp, dù Việt Nam đã có hai dự án lọc hóa dầu, có thể sản xuất nhựa nguyên liệu, nhưng giả sử có chạy hết công suất, cũng chỉ làm ra khoảng 700 nghìn tấn/năm. Trong khi mỗi năm ngành nhựa cần nhập khẩu từ 5-6 triệu tấn, chưa kể có nhiều chủng loại nhựa trong nước chưa đáp ứng được.
“Việt Nam có vài khu chế xuất và doanh nghiệp đã chế biến từ dầu mỏ nhưng sản lượng rất ít. Ngoài ra chủng loại nhựa không được phong phú, chỉ PP đơn thuần thôi. Các loại nhựa kỹ thuật độ bền cao thì gần như không có”, bà Trần Thị Kim Huệ – Tổng giám đốc Công ty Phong Nam Sinhirose cho biết.
Thiếu nguyên phụ liệu được xem là một trong những điểm yếu của ngành cơ khí (Ảnh minh họa)
Với điểm yếu về nguyên liệu, nên nhiều doanh nghiệp cho biết họ buộc phải nhập khẩu máy móc nguyên chiếc về để bán. Vì nếu sản xuất ở Việt Nam, lại vẫn phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài, thì sẽ khiến chi phí giá thành lên cao, khó cạnh tranh.
“Sản xuất ở Việt Nam mà nhập khẩu nguyên liệu ở Trung Quốc thì như “chở củi về rừng”. Nếu không chủ động được nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp hỗ trợ thì các nhà đầu tư sẽ đặt nhà máy tại nơi có vùng nguyên liệu”, ông Nguyễn Đức Giang – Giám đốc Marketing – Weichai Việt Nam cho biết.
Nhằm khắc phục tình trạng phụ thuộc vào nguyên vật liệu, linh phụ kiện nhập khẩu, Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết 115 về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ. Trong đó, nhấn mạnh tới các chính sách phát triển cho ngành công nghiệp vật liệu, với nhiều ưu đãi về cơ chế và tài chính.
Giải pháp cho ngành cơ khí?
Theo TS. Trương Chí Bình – Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, ngành cơ khí đang gần như không có một ưu đãi gì. Nếu nói về công nghiệp hỗ trợ thì có ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhưng ưu đãi chỉ khi doanh nghiệp có thu nhập song thường các doanh nghiệp sản suất chế tạo 3-5 năm đầu gần như không có lãi. Do đó quan trọng là phải hỗ trợ đầu vào để các doanh nghiệp đầu tư sản xuất.
“Đang rất thiếu các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất cơ khí. Hầu hết là những người theo đuổi ngành này như một đam mê. Vì lợi nhuận không ai đi đầu tư sản xuất cơ khí. Việc này thì nước nào cũng thế không chỉ phải ở Việt Nam”, bà Bình cho biết.
Song theo bà Bình, các nước vẫn có ngành công nghiệp cơ khí phát triển bởi có những chính sách phù hợp như: Tạo ra dung lượng thị trường đủ lớn cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất.
Về hỗ trợ các doanh nghiệp cơ khí, mới đây, Bộ Công Thương cho biết, trong năm 2022 và những năm tới, Bộ tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của 2 Trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp miền Bắc và miền Nam.
Ngoài ra, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phát triển mạnh công nghiệp hạ nguồn. Trong đó có một số ngành như công nghiệp năng lượng, các ngành công nghiệp về cơ khí chính xác cũng như một số ngành cơ khí chế tạo để đảm bảo cho công nghiệp hỗ trợ có điều kiện phát triển…