– Đơn vị chủ trì: Vụ Chính sách thuế
– Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Nguyễn Thu Trang
– Năm giao nhiệm vụ: 2019/Mã số: 2019-48
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là ngành sản xuất công nghiệp mang tính nền tảng, chính yếu và có ý nghĩa quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng suất lao động, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh, góp phần tăng tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu nền kinh tế. Phát triển công nghiệp hỗ trợ là một trong những giải pháp quan trọng nhất để Việt Nam cải thiện chất lượng nền kinh tế, phát triển bền vững. Trong thời gian qua, nhiều nghị định, quyết định về chính sách phát triển ngành CNHT đã được ban hành. Các cơ chế chính sách nói chung cũng như cơ chế chính sách tài chính nói riêng đã lồng ghép các nội dung ưu đãi cho ngành CNHT, qua đó góp phần nâng cao năng lực sản xuất các sản phẩm CNHT. Mặc dù vậy, CNHT ở Việt Nam vẫn bộc lộ một số hạn chế về quy mô, năng lực sản xuất, được thể hiện qua năng lực tự cung ứng và tỷ lệ nội địa hóa thấp, giá trị gia tăng trong ngành chế biến chế tạo thấp hơn so với các nước khác trong khu vực. Các công trình nghiên cứu của các học giả trong nước cũng đã đánh giá về thực trạng phát triển CNHT nói chung, cũng như CNHT một số ngành nói riêng như điện tử gia dụng, giầy dép, ô tô, cơ khí… Một số bài viết cũng đã đưa được nội dung tổng quan về các cơ chế, chính sách chung về phát triển sản phẩm, nguồn nhân lực, khoa học kỹ thuật, xúc tiến thương mại…, trên cơ sở đó phân tích tác động ảnh hưởng chính sách đến ngành CNHT và đề xuất một số giải pháp. Tuy nhiên hiện chưa có nghiên cứu sâu về cơ chế tài chính để thúc đẩy phát triển CNHT, chưa có đề xuất hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính trong bối cảnh hiện nay và trong giai đoạn tiếp theo. Do vậy, việc nghiên cứu, rà soát và đề xuất chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết để hiện thực hóa chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước, góp phần tăng năng lực cạnh tranh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp CNHT phát triển và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đề xuất các giải pháp để hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính nhằm thúc đẩy phát triển ngành CNHT ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách tài chính nhằm phát triển ngành CNHT của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu chính sách tài chính, trong đó tập trung vào chính sách thuế (gồm chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp), tín dụng, đất đai và huy động vốn, chính sách tài chính hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực của ngành CNHT. Bên cạnh đó, về ngành CNHT, đề tài tập trung chủ yếu đi sâu nghiên cứu vào 06 ngành CNHT ưu tiên phát triển gồm: công nghiệp dệt may; da giầy; sản xuất; lắp ráp ô tô; điện tử; cơ khí chế tạo; CNHT công nghệ cao.
4. Kết quả nghiên cứu
(1) Đề tài đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về CNHT, đưa ra khái niệm về CNHT, vai trò của ngành CNHT trong nền kinh tế. Qua đó cho thấy CNHT là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa. Phát triển CNHT chính là tạo cơ hội, cơ sở để thực hiện hội nhập toàn cầu, góp phần tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài và tạo tăng trưởng bền vững. CNHT phát triển sẽ khuyến khích ứng dụng, chuyển giao công nghệ, sử dụng khoa học công nghệ cao, góp phần ổn định kinh tế, xã hội, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, đề tài cũng đã hệ thống được các chính sách liên quan đến ngành CNHN, trên cơ sở làm rõ khái niệm, vai trò và phân loại các chính sách theo cách tiếp tiếp cận ở phạm vị nghiên cứu.
(2) Đề tài nghiên cứu, phân tích kinh nghiệpm phát triển CNHT và áp dụng chính sách tài chính để thúc đẩy phát triển ngành CNHT tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, đặc biệt các nước tương đồng với Việt Nam như Thái Lan, Malaysia… Qua đó cho thấy, các quốc gia đều xác định phát triển công nghiệp nhằm xây dựng nội lực quốc gia và tự cường của đất nước. Để phát triển CNHT, các nước xác định điều kiện tiên quyết là phải có ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong nước phát triển, mở ra cơ hội thị trường cho các doanh nghiệp CNHT trở thành nhà cung cấp, tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Để phát triển CNHT, các nước hầu hết phải dựa trên cả điều kiện cần và đủ, cụ thể: điều kiện cần là quy mô thị trường, trong khi điều kiện đủ là năng lực cạnh tranh của các nhà cung cấp trong nước và chất lượng nguồn nhân lực công nghiệp đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo. Từ các nội dung phân tích kinh nghiệm của các nước, đề tài đã đúc rút được một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, đó là cần đánh giá đúng vai trò của phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo và CNHT trong phát triển kinh tế đất nước là xây dựng nội lực, đảm bảo tự cường dân tộc. Chính sách được xây dựng và triển khai đồng bộ, kiên trì dài hạn, đầu tư nguồn lực thích đáng để gấp rút nâng cao năng lực của các doanh nghiệp công nghiệp, cũng như CNHT thông qua các chương trình có mục tiêu cụ thể. Các chi phí hỗ trợ cho doanh nghiệp cần được xác định là chi phí cho đầu tư phát triển. Ngoài ra, cần xây dựng chính sách đặc thù để phát triển CNHT, bố trí đủ nguồn lực để triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp,
(3) Đề tài phân tích, đánh giá thực trạng ngành CNHT cho thấy hệ thống pháp luật, chính sách về CNHT ngày càng được hoàn thiện, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ phát triển cả về lượng và chất. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp CNHT còn ít, năng lực doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT thấp, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của các ngành CNHT, khả năng tự cung ứng các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước còn nhiều bất cập, tỷ lệ nội địa hóa thấp. Bên cạnh đó, qua phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng chính sách tài chính trong thời gian vừa qua có thể thấy, chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển công nghiệp nói chung cũng như chính sách tài chính đối với ngành CNHT nói riêng đã mang lại những kết quả nhất định, góp phần thực hiện các yêu cầu và mục tiêu nêu ra tại các văn bản, chỉ thị của Nhà nước. Các cơ chế, chính sách tài chính được ban hành tại các văn bản pháp luật tài chính chuyên ngành hoặc được lồng ghép thông qua các văn bản ưu đãi đặc thù riêng cho phát triển CNHT (như Nghị định số 111/2015/NĐ-CP, Quyết định số 68/QĐ-TTg) bước đầu đã phát huy tác dụng, tạo tính lan tỏa, góp phần thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp trong nước. Mặc dù vậy, trong quá trình triển khai, các chính sách còn một số bất cập, hạn chế : (i) Chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp phát sinh một số vướng mắc về chuyển tiếp ưu đãi thuế đối với các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT thực hiện trước ngày 01/01/2015; (ii) Chính sách thuế giá trị gia tăng thay đổi về phương thức khấu trừ thuế đối với máy móc thiết bị nhập khẩu phục vụ sản xuất khiến doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp CNHT gặp khó khăn do thời gian khấu trừ bị kéo dài hơn so với quy định trước đây. Điều này khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp ; (iii) Chính sách thuế nhập khẩu theo quy định tại Nghị định số 134/2016/NĐ-CP ngày 1/9/2016, các doanh nghiệp để được miễn thuế nhập khẩu thì phải trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy thác xuất khẩu. Quy định này làm cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm CNHT cung cấp cho các doanh nghiệp khác để sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn vì trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, việc xuất khẩu một sản phẩm cần có sự tham gia của nhiều nhà sản xuất. Do đó, hầu hết tất cả các doanh nghiệp CNHT không thể đáp ứng điều kiện trực tiếp xuất khẩu. Nhìn chung, các chính sách tài chính về ưu đãi thuế, tín dụng đầu tư, ưu đãi về thuế, tiền thuê đất, đặc biệt là phân bổ nguồn lực để triển khai các chính sách về công nghiệp hỗ trợ chưa được cụ thể hóa… Việc thiếu các cơ chế này làm cho các doanh nghiệp CNHT khó khăn trong việc tiếp cận các hỗ trợ và ưu đãi. Việc tổ chức thực hiện một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ còn gặp nhiều vướng mắc như chính sách bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa qua hệ thống ngân hàng phát triển, chính sách hỗ trợ DNNVV trong công nghiệp hỗ trợ. Bên cạnh đó, công tác thực thi chính sách về công nghiệp hỗ trợ còn rất hạn chế chưa tạo ra các chế tài chặt chẽ buộc phải tuân thủ về việc bố trí các nguồn lực để triển khai.
(4) Trên cơ sở mục tiêu, quan điểm của Nhà nước về phát triển CNHT; cùng với việc rà soát, đánh giá chính sách tài chính hiện hành; đối chiếu, so sánh kinh nghiệm tại các quốc gia, đề tài đề xuất nhóm các giải nhằm hoàn thiện chính sách tài chính để phát triển ngành CNHT ở Việt Nam trong giai đoạn tới, bao gồm: chính sách thuế; chính sách tín dụng; đất đai; hỗ trợ nguồn vốn; chính sách tài chính hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực CNHT… Tuy nhiên, để có thể thúc đẩy ngành CNHT phát triển hơn nữa thì ngoài các chính sách về tài chính còn cần có sự phối hợp đồng bộ trong việc ban hành các chính sách khuyến khích sản xuất, tiêu dùng; chính sách về nghiên cứu khoa học; chính sách về đầu tư; chính sách về phát triển nguồn nguyên liệu, nguồn nhân lực trong lĩnh vực CNHT.